Kiên Giang

8:24 sáng | 18/06/2019

An Biên 1 trong 4 huyện nằm trong vùng U Minh Thượng của tỉnh Kiên Giang, có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế biển, nuôi trồng thủy sản ven biển, nhất là nuôi tôm nước lợ với các mô hình luân canh tôm sú – lúa, tôm càng xanh – lúa, xen canh tôm, cua biển – lúa, tôm – rừng; tôm thẻ thâm canh công nghiệp công nghệ cao trong ao lót bạt, có mái che; …

Trước tình hình biến đổi khí hậu, huyện An Biên đã xây dựng mô hình nuôi tôm; trong đó, tập trung mô hình nuôi một vụ tôm – một vụ lúa đang cho hiệu quả khá cao.

Mô hình một vụ tôm – một vụ lúa chứng minh giảm thiểu nạn ô nhiễm đồng ruộng, hạn chế độc tố cho môi trường nuôi tôm, hạn chế dịch bệnh, giúp tôm sinh trưởng phát triển tốt. Sau một vụ lúa, các loại rơm rạ bị phân hủy tạo môi trường sống và nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm trong vụ nuôi tiếp theo. Nhờ đó, mô hình này góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất và lợi nhuận. Ngoài ra, canh tác lúa trên nền đất nuôi tôm là cách rửa mặn tích cực vào mùa mưa, hạn chế quá trình mặn hóa, kéo dài tuổi thọ sử dụng đất. Bởi nếu chuyên canh tôm lâu dài, nước mặn sẽ ngấm sâu vào tầng đất dưới, làm đất bị thoái hóa, không thể sử dụng cho các mục đích trồng trọt sau này.

Theo ông Trần Hoàng Mẫm – Chủ tịch huyện An Biên, khi mô hình này được triển khai nhân rộng đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho nông dân, góp phần chuyển đổi cây trồng vật nuôi theo hướng tái cơ cấu ngành.

Năm 2018, huyện An Biên có 19.622 ha nuôi tôm nước lợ, trong đó 17.522 ha luân canh tôm – lúa. Nếu như trước đây, nông dân chỉ tập trung trồng lúa năng suất trên dưới 3 tấn/ha nhưng bây giờ đã chuyển sang mô hình lúa – tôm đạt từ 5,5 tấn/ha, nuôi tôm 300 – 370 kg/ha, có nơi đạt 450 – 500 kg/ha. Điều đáng nói ở đây là sản lượng lúa cao mà tỷ lệ rủi ro lại rất thấp. Cùng với đó, lợi nhuận cũng tăng gấp 2-3 lần so với độc canh cây lúa, vốn đầu tư ít, nông dân thu về hai nguồn lợi từ tôm và lúa.

Xác định mô hình một vụ tôm – một vụ lúa là cứu cánh để vực dậy kinh tế trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay, do vậy huyện chú trọng xây dựng hệ thống các công trình thủy lợi phục vụ vùng quy hoạch. Đầu tư hệ thống điện, trạm bơm, cống đập ngăn mặn cho vùng trồng lúa; tăng cường công tác quản lý chất lượng con giống, thuốc và hóa chất sử dụng trên tôm nuôi; tuân thủ quy trình sản xuất theo lịch thời vụ của từng tiểu vùng. Đồng thời, tổ chức tập huấn kỹ thuật cho nông dân, nhất là về quản lý môi trường nước, phòng trị bệnh trên tôm, kỹ thuật canh tác lúa trong mô hình.

Thời gian tới, huyện An Biên tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trên cơ sở kế thừa, phát huy những cây trồng, vật nuôi truyền thống như trồng lúa, nuôi trồng thủy sản; chuyển đổi diện tích đất cho năng suất, giá trị thấp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị theo từng vùng như bờ Đông quy hoạch một số diện tích chuyên trồng 2 vụ lúa, trồng màu, bờ Tây và một phần bờ Đông chuyển sang một vụ tôm –  một vụ lúa, trồng màu, bờ Tây và một phần bờ Đông chuyển dịch sang một vụ tôm – một vụ lúa; đặc biệt chuyển diện tích đất cặp bờ biển thành đất chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, du nhập một số giống cây trồng vật nuôi mới cho năng suất, giá trị cao như cá bống mú, tôm càng xanh.

Ngoài ra, xây dựng điểm trình diễn mô hình sản xuất tôm – lúa để nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm; xây dựng mô hình điểm nuôi tôm sạch theo tiêu chuẩn VietGAP. Đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức cho nông dân sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, chất lượng, đảm bảo gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Quan tâm đầu tư hỗ trợ cơ sở vật chất cho HTX và THT, nhất là thủy lợi, cống, đập, trạm bơm điện. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành và triển khai thực hiện các dự án đã ký kết thực hiện năm 2019 với Trường ĐH Cần Thơ.

Tiếp tục huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông – thủy lợi như: Xây dựng hệ thống thủy lợi, gắn với xây dựng giao thông nông thôn và xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch của huyện. Phối hợp với các ngành chức năng của tỉnh triển khai thực hiện cống Cái Lớn, cống sông xáng Xẻo Rô và các công ven biển, đường tỉnh lộ 966, đường ven sông Cái Lớn, đường Thứ Ba – Nam Yên, đường kết nối từ tỉnh lộ 964 ra sông Cái Lớn.

Ưu tiên nguồn lực cho các xã nghèo, xã đặt biệt khó khăn, bãi ngang ven biển, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 3% trở lên trong năm 2019 để cuối năm còn 5,64%.

Thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, chủ động công tác phòng ngừa các loại dịch bện, kịp thời dập tắt không để bùng phát dịch trên địa bàn. Đẩy mạnh tuyên truyền vận động người dân tham gia BHYT đạt tỷ lệ 91% theo kế hoạch đề ra.

Xây dựng hoàn thành thêm 1 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đưa số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 2/8 xã, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ có 3/8 xã được công nhận là xã nông thôn mới./.