Quỹ Lê Lựu

Thông báo kết quả “cuộc thi viết truyện ngắn và ký về đề tài nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” do QNVLL tổ chức lần thứ 3: Vài cảm nhận về các tác phẩm nhận giải

9:42 sáng | 27/05/2021

Cuộc thi viết truyện ngắn và ký về đề tài nông nghiệp, nông thôn Việt Nam lần thứ 3 năm 2018- 2020, do Qũy Nhà văn Lê Lựu tổ chức đã thu hút được hàng ngàn tác phẩm của các tác giả từ mọi miền tổ quốc gửi bài dự thi. Cuộc thi phát động từ năm 2018, đến cuối năm 2020 thì kết thúc. Cuộc thi lần thứ 3 vẫn không thể tìm được tác phẩm xứng đáng để trao giải Nhất như kỳ vọng của Ban tổ chức và Giám khảo cuộc thi. Kết thúc cuộc thi, Ban giám khảo quyết định trao 01 giải Đặc biệt; 02 giải Nhì; 02 giải Ba; 05 giải Tư. Tổng số 10 giải thưởng với giá trị bằng tiền mặt gần 200 triệu đồng.

Ban tổ chức xin chúc mừng các tác giả nhận giải lần thứ 3 Quỹ Nhà văn Lê Lựu. Đồng thời xin giới thiệu bài khái lược về các tác phẩm nhận giải lần này của nhà văn Văn Chinh, thành viên Ban giám khảo.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân – CTHĐQLQ – Trưởng ban giám khảo.

Ban chung khảo Giải thưởng Qũy Nhà văn Lê Lựu, lần thứ 3;

Nhà văn Nguyễn Trí Huân, Chủ tịch Hội đồng quản lý Qũy Nhà văn Lê Lựu, Trưởng ban giám khảo;

Nhà văn Khuất Quang Thụy, Tổng biên tập Báo Văn nghệ, ủy viên;

Nhà văn Văn Chinh, ủy viên;

Nhà văn Hà Nguyên Huyến, ủy viên;

Nhà báo Trần Thị Hoài -Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Doanh nhân, Thư ký Ban Chung khảo;

Đọc 5 truyện ngắn giải Tư, tôi nhận ra nó khá đồng đều. Chính nó làm nên nền tảng cao cho chất lượng giải. Sực nhớ năm 1983, tôi nhận giải Khuyến khích cuộc thi của báo Văn nghệ cho truyện ngắn: Đi xe ngựa chỉ mất nửa ngày đường, với bằng xác nhận một bên có chữ ký của Quyền Tổng biên tập Đào Vũ, bên kia là chữ ký của Chủ tịch Hội đồng chung khảo Bùi Hiển. Ông Nguyễn Minh Châu được mời dự, lúc ăn cỗ khao của báo, ông ngồi cạnh nói, tôi thấy các giải khuyến khích lần này có cái để đọc hơn. Tôi nghe chỉ vâng, chứ không dám nói gì, tôi hiểu là ông đang khích lệ tôi, phải nói cái điều xã hội cần nghe chứ nói cái điều chỉ ông A bà B nào đó muốn, thì nói làm gì.

Bây giờ cả nhà văn lẫn Ban giám khảo đều tôn trọng tự do sáng tạo, chỉ thượng tôn duy nhất cái hay. Tuy thói quen chỉ trích những tiêu cực đã có nhiều người chỉ trích cho an toàn hoặc quen ngợi ca xưa, chê trách bây giờ hẳn có ngụ ý thị trường là xấu, tệ – những thói quen ấy vẫn còn nhưng chúng tôi đã nhất trí loại khỏi giải, ngay và luôn. Cả 5 giải Tư đều bị dồn từ giải nhì, ba xuống; vì số lượng giải cao có hạn. Như các truyện Rượu bốn mươi năm, Chợ tóc, Núi cựa đã từng vào Top 10 truyện hay trong năm của báo Văn nghệ số Tết năm ngoái. Hẳn các bạn còn nhớ cái cảm giác tủi phận của ông lão cụt chân do chiến đấu bảo vệ Biên giới trong Rượu bốn mươi năm của Bích Ngân? Ông lựa mấy quả dưa hấu đẹp bự nhất vườn mang cúng anh và cho thằng con biếu nhà vợ tương lai, lại mang chai rượu nút lá chuối chọn lựa từng hạt lúa nếp tốt nhất từ ruộng nhà chưng cất thành tâm cúng mộ anh Hai – người anh liêm khiết hy sinh cả đời cho đất nước. Đến nơi, ông thấy bì tải đựng dưa hấu vẫn buộc sau xe máy của con, còn nó đã ngồi xe sang của anh đến thăm nhà bạn gái là con một đại gia. Khi ngồi vào mâm, ông định rót chai rượu nếp, cho mọi người thụ lộc ông anh thì chúng bạn thằng cháu có thằng đưa ra chai Ballantine’s 40 giá 200 triệu uống với nhau. Vậy là bây giờ lộc của bố (của anh, bác) đã mang hàm nghĩa khác, thực dụng và trên tiền một cách trắng trợn. Chợ tóc của Vũ Thị Huyền Trang hay đến day dứt và dư âm cứ còn xao xuyến mãi: Trong chuỗi giá trị nhà quê cung ứng cho thành phố trở nên giầu đẹp sang trọng không chỉ là lợi nhuận thương mại, không chỉ đất đai nguồn sống bị thu hẹp dành cho mở mang phát triển mà phần thua thiệt bao giờ cũng thuộc về nhà quê; ngay đến cả những mái tóc đẹp, dài óng ả của phụ nữ quê cũng trở thành món hàng để họ mang bán kiếm cái áo, manh quần hay thậm chí vở học cho đàn con nheo nhóc để nó nối dài những mái tóc tiếp xúc thường xuyên với điện và thuốc nhuộm làm hư hỏng đi; cái đẹp của nhà quê trở thành nguồn bổ sung cho cái đẹp thành phố. Ở Chợ tóc, nó còn là cái đẹp của tiết trinh thờ chồng – cái văn hóa tâm linh thuần Việt mà Vũ Thị Huyền Trang khéo léo lồng vào mái tóc vừa bị cắt bán, nó chưa mất hẳn nhưng chênh chao, nó khiến bất yên người đọc. Ở Núi cựa của Lữ Mai già giặn về bút pháp, giỏi phục tuyến nên đọc hấp dẫn cuốn hút. Thật khó đòi hỏi ở cây bút trẻ này nhiều hơn về lao động nghệ thuật, có chăng, chỉ là muốn quà tặng xứng đáng hơn với giấy gói, với công phu tình cảm khi gói quà.  Chăn voi của Trần Nguyên Mỹ, một ông giáo nghỉ hưu nhưng lại là nhà văn trẻ ở tận Sông Mã Sơn La. Truyện kể một nghệ sỹ xiếc thú về già, tài nghệ sa sút trong thời buổi khán giả nhiều trò giải trí hấp dẫn hơn. Trong xế chiều đời buồn, ông nghệ sỹ thương thân, thương bạn diễn là con voi già; cùng nó chiêm nghiệm lại từ đầu suốt cuộc toan tính mưu sinh sai lầm và thất bại. Cuộc đối thoại mà độc thoại diễn ra trong khu rừng già đã trở nên suy kiệt, không còn đủ lá và cỏ cây làm thức ăn cho voi mà ông muốn thả nó về, ông đành chăn nó như là cách chuộc tội. Một triết luận về đời người, về mối tương quan ứng xử của người với tự nhiên nhưng có thể vận vào nhiều số phận người ở những nơi không chỉ là rừng. Hay! Trần Hậu Thịnh cũng viết về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, nhưng khốc liệt hơn. Tên lâm tặc do buôn bán gỗ lậu mà giầu, cho thuê người ngồi ở trước Trạm Kiểm lâm đợi sẵn với mớ phong bì trong tay. Nửa đêm gà gáy hay bất cứ lúc nào cần, lâm tặc chỉ đạo qua điện thoại, đưa ai phong bì loại nào thì đưa loại ấy. Mấy nét chấm phá nhưng ta có thể hình dung đây là dạng mafia với mạng lưới ken đặc đến mức rừng không có cách nào sống sót. Mọi nỗ lực bắt hắn đều vô hiệu, vì hắn không trực tiếp, mọi “gặp gỡ” bàn bạc hay hối lộ hắn đều “làm” online. Lũ lụt triền miên, năm nào cũng lụt nhưng hắn và vợ con, cả con vợ bé của hắn cũng ở trong biệt phủ của mình, mọi tai họa dân đen chịu. Nhưng lâm tặc Cẩn không bị tai họa từ lụt mà bị chính con chó berge của mình cắn rách họng mà chết. Nó tự nhiên bỏ nhà đi cả tháng, khi trở về nó đã hóa điên. Đây là đoạn kết của truyện Nước mắt của rừng: “…tôi rủ thằng Khang mua lễ vật, chờ nước rút đi lên nhà thắp hương cho ông ấy. Nhưng chúng tôi không đi mà ông đến, lừ đừ mà đến trong cỗ quan tài bằng gỗ vàng tâm. Mưa to quá, người ta chỉ lấp đất sơ sài, nhủ nhau để hôm cúng ba ngày xong mới ra đắp cẩn thận thành nấm. Gỗ tốt không ngấm nước, nhúm đất bùn bị nước cuốn trôi, nó từ từ nổi lên rồi theo dòng nước trôi xuôi. Tôi chỉ kịp nhận ra, hiểu ra mọi sự thì cỗ quan tài đã trôi mất hút, dù trong lòng rất muốn níu lấy nó, cột nó lại giùm, nghĩa tử là nghĩa tận.”                               

Trong hai giải Ba, bút ký Thương thay hạt nếp cái hoa vàng của làng và truyện ngắn…dài Chuyện tình rong biển, chúng tôi xin nói ngay, bài ký của Lê Công Hội khá hơn truyện của Lê Đức Hân. Làng Gang có đặc sản lúa nếp cái hoa vàng từng có mặt trong Vân đài loại ngữ của cụ Lê Quý Đôn. Do ấu trĩ, người ta thậm chí không đặt câu hỏi tại sao chỉ 3 ha đồng Sau nếp cái hoa vàng mới đặc biệt như thế, còn cấy trên những cánh đồng còn lại của làng cũng thơm nhưng không còn sự khác biệt độc đáo nữa. Chỉ nghe nói đồng cao, tốn công tát nước bèn bàn nhau hạ độ cao, gạt đất mầu đất thịt sang một bên, xúc lớp cát vàng cát đen làm vật liệu xây dựng rồi san đất trở lại. Vậy rồi, sau khi cái cấu trúc thổ nhưỡng trầm tích nguyên thủy của cánh đồng Sau bị cái ấu trĩ hồn nhiên phá vỡ, chất lượng gạo nếp cái hoa vàng cũng mất hết giá trị vốn có. Bây giờ, người ta đang tìm đủ cách phục tráng giống và và thổ nhưỡng, nhưng “bao giờ cho đến tháng Mười?” vì học được sự kỳ diệu của tự nhiên trong việc tạo ra các vi lượng trong đất ngàn năm không thể không mất nhiều chục năm, nếu chưa nói là khó như tìm đường lên giời!

Truyện của Lê Đức Hân lại nhằm phục tráng lại nhân tính sau khi con người bị giặc ghép chíp để phục vụ cho âm mưu biến Tâm – một thầy giáo tự nguyện ra đảo xa dạy học, thành nội gián khi cần. Tai họa xẩy ra thuyền câu mực của Tâm gặp bão, thầy bị chấn thương và nằm hôn mê trong bệnh viện nước ngoài. Khi về được đơn vị, thầy được giải phẫu tháo chíp. Nhưng các bác sỹ chưa có kinh nghiệm đối phó với kẻ thù thâm hiểm, khi gắp cái chíp ra, những móc câu của chân chíp cũng móc hệ thần kinh ký ức của Tâm bị đứt gẫy, thầy trở thành bệnh nhân mất trí nhớ. Cô học trò năm xưa, đã yêu người thầy đầu tiên của mình; cả chục năm sau, Trực đã thành cô giáo rồi hiệu trưởng một trường cấp 3. Quá trình ra đảo tìm thầy, tìm thấy thầy lại tìm cách phục hồi ký ức cho thầy gian nan, phi phỏng, khiến người đọc không thể không tiếp tục lo lắng cùng nhà văn. Cuối cùng, cùng với cú chấn thương sọ não như một phép diệu kỳ, sau mấy ngày hôn mê sâu, hệ thần kinh ký ức của thầy Tâm đã vô tình gặp được nhau như phép mầu của tạo hóa, phép mầu của tình yêu với những nỗ lực của con người mang tình yêu ấy..

Tiếc rằng cả hai giải Ba này đều dài, mỗi cái dài mỗi kiểu.

Giải Nhì thứ hai được trao cho chùm bút ký của nhà văn Lê Ngọc Minh. Là nhà văn đã thành danh, văn Lê Ngọc Minh chân phương, giản dị, ý tứ chuẩn chỉnh. Ông không tránh né nỗi bức xúc lo lắng của toàn xã hội về chương trình giáo dục nặng nề, muốn nhẹ bớt hành trang để trẻ được phát triển cả thể chất lẫn năng lực tư duy. Nhẹ nhàng nhưng có sức lay động lớn, Lê Ngọc Minh viết về nền dạy học của tiền nhân (Đất học) ở làng Bột Thượng – còn được gọi là làng Quan Trạng, được vua phong 4 chữ Địa linh nhân kiệt chép trên cuốn ở cổng làng. Chỉ một chi tiết: Quan thượng thư chỉ đỗ Cử nhân, ghét Hoàng giáp Nguyễn Bá Nhạ vì ông trực ngôn, về làng bị ngồi chiếu dưới (ở làng này “trọng khoa hơn trọng hoạn”) bèn đưa ông đi dẹp giặc cỏ, sau hối cho người gọi về. Ông không về, còn nói: “Chết thằng Nhạ không chết Hoàng giáp.” Chỉ một chi tiết ấy thôi, nó cho biết cái học và cái dạy ngày xưa đạt hiệu quả thế nào! Trong Bạn lính, Lê Ngọc Minh cũng nhẹ nhàng tôn vinh những con người trọng tài và trọng tình sống với nhau, thủy chung vì nhau và cùng nhau vì cái tốt đẹp cho đất nước. Nói chung, các tác phẩm của ông không gây hiệu ứng tức thời mà âm thầm, lặng lẽ, lan tỏa.

Giải Nhì thứ nhất được trao cho Mái tranh nghèo của mẹ của Đặng Chương Ngạn. Cái đáng nói đầu tiên về cây bút còn chưa mấy tên tuổi này là nói được điều xã hội cần nghe, nó được gói trong cấu trúc vững vàng và “thuộc” diễn biến tâm lý, đặc biệt là thuộc ngôn ngữ nhân vật. Đây là điều nhiều nhà văn, sau lý thuyết diễn ngôn bập bõm nhập vào đã bất chấp, khiến truyện của họ khiên cưỡng, thiếu sức thuyết phục. Tôi thất nghiệp, công ty gần như phá sản, nợ nần. Tôi nhận được cú điện thoại của Thể – một tay Trưởng ban quản lý dự án thủy điện tham ăn và ăn tạp mà thành tục danh “Thể cá tra”. Thể gọi cho tôi, chẳng qua là gói thầu phụ đường dẫn vào công trình “đi” qua suối đã ba nhà thầu bỏ của chạy lấy người vì bị tai nạn chết người, bị gẫy cần cẩu hình như do yếu tố tâm linh; lại không thể thuê được cẩu lớn đủ sức đưa dầm cầu qua suối. Tôi đã vận dụng kinh nghiệm lao dầm cầu từ thời chiến tranh, là ghép các thùng phuy làm phao, đắp đập để nước nâng phao mà đưa dầm qua, lần lần. Nhưng khi đưa máy đào xúc đến thì xúc phải sọ người chết. Tôi xuống hố xem thì biết đó không phải một mà là hai hài cốt, một đội mũ sắt USA, một mũ cối. Hai hài cốt ôm nhau, có thể hình dung trước khi nằm đây, họ đã vật lộn, đã dâm dao vào ngực người kia rồi cùng rơi từ mép núi mỏ quạ trên cao 20 m xuống, vẫn còn chưa rời nhau. Tôi đã cho mua quan quách, cho người tắm rửa hài cốt bằng rượu, nhưng kỳ lạ là hai bộ hài cốt cứ không chịu rời nhau. Xin âm dương để bỏ sang bên mũ sắt, không cho; xin bỏ sang mũ cối, cũng không cho. Chỉ đến khi xin rằng cứ để nguyên hiện trạng thì cả ba lần hai đồng xu đều tít mù quay rồi khi ngừng thì đều một sấp một ngửa. Quá trình tắm sửa cát táng bộ hài cốt đôi, tôi nghe dân sở tại để biết ngày xưa có hai trung đoàn đánh nhau tại đây, có hàng trăm bộ hài cốt còn chưa được quy tập. Tôi nói với Thể cá tra, tôi chỉ thi công tiếp nếu bên A cho quy tập toàn bộ hài cốt; nhưng kẻ ô trọc chỉ biết đến tiền và ngày khởi công thủy điện. Và, vì không thể thi công trên những nấm mộ còn nằm dưới đất, tôi đã chọn chịu vỡ nợ, chịu vào tù chứ không chọn tiền. Tôi đã bán cái đồng hồ lấy tiền đưa cho Hiệp, tay kỹ sư – Grab mà tôi vừa tuyển dụng:

 “Cái này không đủ để em thực hiện giấc mơ: trở về nhà với nhiều tiền trong túi, dựng lại ngôi nhà cho mẹ, nhưng có thể giúp em đủ tiền mua vé về nhà, đủ tiền sửa lại mái tranh cho mẹ. Em hãy ở với mẹ một thời gian rồi đi tìm một công việc mới!” (…) Năm đó, tôi đã ngoài năm mươi, lại một lần tay trắng và sắp bước chân vào tù vì nợ nần…

Truyện kết thúc như vậy, dứt khoát, nghĩa hiệp như một thái độ thẩm mỹ. Có ý kiến cho rằng, mô tuýp hai người lính vật lộn nhau đến chết này quen quen. Vâng thì nó quen, nhưng gốc quen này trồi thành hai cây mỹ cảm khác hẳn nhau. Cây kia mang chứa cái kết cục, cây này vừa mang chứa sự phát triển vừa gợi nhắc một vấn đề khác nữa; để không thể cứ thản nhiên vô cảm mà phát triển.

Với suy nghĩ như thế, chúng tôi thống nhất trao giải cao nhất trong hệ thống giải chính thức Quỹ Nhà văn Lê Lựu lần thứ 3 cho Mái tranh nghèo của mẹ. Chúng tôi tin nó, cùng chất lượng các tác phẩm nhận giải lần này sẽ chung sức vun bồi cho “Văn hóa Doanh nhân” – nét văn hóa đạo đức rất cần trở thành nền tảng của phát triển kinh tế xã hội.

Giải thưởng đặc biệt được chúng tôi thống nhất trao cho tác phẩm “Ở quê ngày ấy” của Nhà văn Lê Lựu như một lời cảm ơn của Qũy đối với người thành lập ra Qũy Nhà văn Lê Lựu trong lúc ông ốm đau.

Sau giải thưởng lần thứ ba, Qũy Nhà văn Lê Lựu tiếp tục phát động cuộc thi viết truyện ngắn đề tài văn hóa doanh nhân; nông nghiệp – nông thôn Việt Nam lần thứ 4 năm 2021- 2023). Bắt đầu nhận tác phẩm dự thi từ tháng 6/2021. Mong rằng cuộc thi tiếp tục nhận được sự ủng hộ của đông đảo cây bút trong khắp mọi miền của tổ quốc.

Ban tổ chức xin trân trọng giới thiệu với độc giả  tác phẩm đoạt giải Nhì của cuộc thi, tác phẩm: Mái tranh nghèo của mẹ – tác giả: Đặng Chương Ngạn.

Trân trọng!

                          MÁI TRANH NGHÈO CỦA MẸ

                      Truyện ngắn của Đặng Chương Ngạn

Chiếc điện thoại cục gạch có đến năm cuộc gọi nhỡ từ một số máy lạ. Tôi không gọi lại vì nghĩ rằng nếu có việc cần gấp họ sẽ gọi tiếp. Đúng vậy, số máy lạ đã gọi lại vào buổi chiều, tiếng chuông dai dẳng kéo dài, sẽ còn kéo dài dẳng dai hơn nếu như tôi không bắt máy… Cái giọng khê đặc không lẫn vào đâu được của tay Trưởng Ban quản lý dự án các công trình thuỷ điện tôi từng tham gia xây dựng mấy năm gần đây dội ra từ loa thứ âm thanh rờn rợn như ai kéo cái thùng tôn rỗng trên nền gạch. Dân xây dựng thuỷ điện quen gọi gã là Thể cá tra. Thực ra gọi như vậy oan cho cá vì con cá tra vẫn chừa ra một số thứ không ăn, còn Thể này thì không, hắn nhai rau ráu mọi thứ.

– Có gì không ông?

– Dự án mới năm trăm tỷ!

– Hắn cúp máy cái rụp.

Hắn biết rõ quyền uy của thông tin trên. 100 thằng thầu xây dựng thì 100 thằng sẽ gọi lại ngay khi nghe một thông tin như vậy. Gọi vồn vã, nịnh nọt, giọng bỡ đỡ, cầu tài… Hình dung cái mặt chảy xệ mỡ đắc chí của hắn đang xẹp xuống trong kinh ngạc, tôi khẽ thở dài… Tôi không gọi. Mấy năm lăn lộn rừng núi Miền Trung, tôi cũng chẳng kiếm được bao nhiêu từ các dự án thuỷ điện, chỉ mang về mớ vi trùng sốt rét, thói xấu nghiện thuốc lào và mấy chục số điện thoại của các ả giang hồ… Chút tiền kiếm được, tôi cũng đã nướng sạch vào sàn chứng khoán, với cơn đỏ đen phát sinh lên xuống theo vnindex. Bây giờ, moi hết túi, tôi không còn đồng lẻ nào để tham gia dự án mới, mà chắc chắn ngay khi gặp gã Thể thủ tục đầu tiên cũng không dưới mười ngàn đô… Thực tế cay đắng, tôi đang trốn nợ, đang bị mấy nhà cung cấp vật tư doạ kiện ra toà, doạ bỏ tù vì nợ dây dưa chưa trả…

Thật bất ngờ, hắn gọi lại tôi cuối buổi chiều:

– Dự án hấp dẫn mà ông không quan tâm? Lạ thật ?

– Không. Tôi chán lên rừng rồi! Mà ông gọi lại tôi làm gì! Vụ này ông hé miệng thì có hàng trăm nhà thầu nhảy vào đánh nhau toé máu ấy chứ!…

Thể cá tra bất ngờ hạ giọng:

-Đúng vậy! Nếu tôi hé miệng thì đúng hàng trăm thằng nhào tới! Nhưng tôi cần ông, tôi biết chỉ ông mới làm được vì có một vấn đề: Tiến độ gấp. Rất gấp. Đám kia chỉ ăn hại!

Hoá ra hắn đang vào thế kẹt. Ngày làm lễ khởi công đã đến nhưng con đường dẫn  vào công trường vẫn chưa xong. Hắn cần một thằng như tôi để có thể hoàn thành con đường dẫn trong thời gian hai tháng. Tình thế lạ lùng, một nhà thầu như tôi được quyền ra điều kiện cho bên quản lý dự án: đúng là sông có khúc, đời có lúc nhỉ, đôi khi gã số phận khó tính mỉm cười với ta vào lúc bất ngờ nhất.

Để được Thể cá tra vời tới, xuống nước không cần đút túi một phần trăm nào không phải là chuyện bình thường: thứ nhất, tôi là một nhà thầu luôn giải quyết được các vấn đề kỹ thuật và tiến độ các công trình xương nhất, mà đám dự án thuỷ điện đều biết tên, biết mặt; thứ hai, chắc chắn dự án đang rơi vào một tình thế bế tắc, hết sức bế tắc…

Tôi được Thể xí cho công việc đầu tiên cũng vì giải quyết một tình thế bế tắc của hắn…

Tôi được giao thi công con đường dẫn với giá đặc biệt, theo đúng chi phí chủ đầu tư phê duyệt không phải chi một phần trăm nào – Thể cam kết vậy. Tôi chỉ cần có mặt với nhóm quản lý của mình. Máy móc thiết bị, nhân công, vật tư… đều đã có sẵn của các nhà thầu trước bỏ chạy, bị bắt vạ…Tôi sẽ được mua lại, thuê lại với giá hết sức mềm và Thể sẽ cho ứng ngay tiền để trả… Tôi chỉ cần có mặt sớm với bộ máy quản lý, thi công…  

Bộ máy quản lý thi công, tôi nhếch miệng cười, năm ngoái tôi đã cho tất cả nhân viên công ty nghỉ việc và hiện vẫn còn nợ lương của họ. Tôi đăng báo tuyển gấp một kỹ sư xây dựng có ít nhất ba năm kinh nghiệm xây dựng thuỷ điện, thành thạo vi tính, biết vẽ và lập dự toán. Nội dung tuyển dụng ghi rõ sẽ phải làm việc tại một công trình thuỷ điện miền núi, hiện vẫn còn sốt rét, lương được trả gấp đôi nhưng chỉ được nhận khi quyết toán công trình… Trong hai ngày, không có ứng cử viên nào gọi tới, tôi phải hạ tiêu chuẩn: nhận luôn kỹ sư mới ra trường, không yêu cầu kinh nghiệm, trong ba ngày tiếp đó, cũng không có cuộc gọi nào. Vào buổi tối cuối cùng có một kỹ sư mới ra trường hỏi về công việc. Không quan tâm làm gì, ở đâu, chỉ hỏi xem có đúng tôi sẽ trả lương gấp đôi như cam kết không. Đúng là một kẻ chỉ biết đến tiền. Lúc khác, tôi đã từ chối, tiễn đưa anh ta với vài lời mai mỉa. Nhưng trong tình thế này, tôi đành vớ lấy ứng viên duy nhất với khoản lương hai muơi triệu đồng và khoản thưởng cuối công trình. Hai thầy trò hẹn gặp nhau ở bến xe 4h30 sáng mai để cùng đi Quảng.

Cộng sự là một thanh niên trẻ đã tốt nghiệp hơn hai năm, không có việc làm nên tham gia đội quân áo xanh chạy grab, anh ta chỉ có kinh nghiệm đưa đón khách, chở mấy em mỏ xanh đỏ chiều chiều cập bến đỗ, chứ hoàn toàn chưa có một chút khái niệm thực tế gì về công việc thi công. Hơi cao, tóc cắt ngắn, mắt sáng, miệng có duyên. Ứng cử viên gặp ngoài đời dễ mến và thân thiện hơn con người hôm qua trả treo với tôi về lương, thưởng qua viber. Tôi và Hiệp bắt xe khách đi đến Đức Phổ, từ đó bắt tiếp hai chuyến xe khách, một chuyến xe ngựa mới đến công trường. “Em không ngại đi xa thành phố à?”- tôi hỏi Hiệp khi đã ngồi yên trên ghế chiếc xe khách liên tỉnh. “Không. Em là dân gốc quê. Mẹ em vẫn sống ở ngoài Quảng. Em ra trường hai năm về quê không kiếm được việc làm nên quay lại thành phố chạy xe grab. Em vẫn nói dối với mẹ đã tìm được việc ở thành phố. Chắc việc anh rao không có kỹ sư nào nhận phải không?”. Tôi cay đắng gật đầu thú nhận: “Họ ngại lên miền rừng!”. “Em liều đi với anh vì em cần tiền. Hồi em ra trường, ghé về thăm mẹ, mái nhà tranh nhà em bị mối mọt sắp sụp rồi… Em hứa cuối năm trước, nhận năm lương kỹ sư đầu tiên sẽ về dựng lại mái nhà tranh cho mẹ, nhưng hai năm rồi em chỉ kiếm đủ để trả tiền trọ, tiền sinh hoạt… Sau công trình với anh, em sẽ trở về… Chỉ sợ không kịp, em chưa về, mùa bão tháng tám, có khi mái tranh nhà em đã đổ sụp!…”.

                                                         **

Gặp gã Thể 15 phút, đi xem thực địa 60 phút, lê la qua mấy lán công trường buổi chiều, tôi đã nắm bắt được thực tế, có đủ dữ liệu cơ bản cho cái hợp đồng thi công mà tôi sắp dấn thân vào…

Đó là con đường dẫn nối vào dự án, con đường này bắt buộc phải hoàn thành mới đưa thiết bị vào thượng nguồn sông khi đó mới thi công đập chính của nhà máy điện được và khi đó cũng mới nhận được giấy phép khởi công từ chính quyền. Nếu con đường dẫn không thi công xong trong hai tháng tới thì dự án có thể bị dẹp, tất nhiên, cái ghế Trưởng Ban của Thể cũng bay luôn…

Đã có ba nhà thầu bỏ chạy chứ không phải bị đuổi như gã Thể nói. Nhà thầu thứ nhất bị Thể ép giá, liều nhận giá thấp, thi công được hai tuần, nhận được tiền tạm ứng, đêm xuống kéo xe máy trốn sạch. Sáng ra, không thấy công nhân ngoài công trường, Thể xuống kiểm tra, chỉ còn lán không, bãi trống. Nhà thầu thứ hai thi công đường dẫn đến suối Nậm Cóc thì liên tục gặp sự cố, máy đào ép cừ, ép luôn cả hai công nhân dưới hố móng chìm ngập xuống bùn chết sặc, cái xe lu ba bánh chạy chậm như rùa lại cán nát người công nhân đang ngồi nghỉ uống nước. Cái ông công nhân hôm đó như có vấn đề về tâm thần, cứ ngồi ngay giữa đường uống nước, đám thợ hồ thi công gần đấy thấy cái xe lu cứ lù lù lăn tới gọi ầm lên nhưng kỳ lạ cả lái máy, cả ông công nhân điếc đặc không nghe thấy. Hôm sau, người nhà ông công nhân kéo lên đòi mạng, cả công trường “toang”. Nhà thầu thứ ba được giao giá cao, được hứa hẹn sẽ được giao tiếp phần đập chính cả trăm tỷ nên hùng hổ kéo cả đại binh tới, xây dựng nhà ăn, canteen, giàn xe máy đậu kín bãi đất trước suối…Thi công được một tuần, tay chỉ huy trưởng đang trưa ra suối tắm cứ nồng nỗng chạy về lán, gặp ai cũng ôm gì lấy khóc lóc: “Anh ơi đưa em về nhà, anh ơi đưa em về nhà, nhà em ở bến Lâu… Nhà em ở bến Lâu…”. Ít ngày sau, họ đang hạ dầm cầu bê tông qua suối thì cần cẩu gãy cái rụp, dầm bê tông rơi xuống vỡ làm đôi, công nhân phụ cẩu bị dầm đè chết… 

Đúng là tôi chỉ cần mang bộ máy quản lý đến, mọi thứ khác đã có đủ: các đội thi công, lán trại, xe máy, công nhân, cốp pha…Tất cả bọn họ đều là chủ nợ nhà thầu thứ ba bỏ chạy, quay ra ăn vạ Ban dự án và gã Thể đã giữ lại cho phương án gọi tôi lên với lời hứa sẽ thanh toán khi tiếp tục thi công với Hải Hà – tức là công ty tôi. Mấy ngày qua họ chờ đợi tôi như chờ một vị cứu tinh, chờ một ân nhân. Họ chờ một người đầy hi vọng mà tay Thể vì để tự cứu hắn khỏi áp lực đòi nợ nên đã vẽ vời thêm về tôi như một giám đốc đầy quyền năng, một người thực chứ không phải một Godot ất ơ nào đấy. Khi vị cứu tinh xuất hiện thì họ bám chặt không rời nửa bước. “Anh Hai – một tay tóc rối bù để ria mép lên tiếng – Em là chủ máy đào ủi, anh Hai cho em thưa chuyện”; “Em là chủ dàn lu rung, máy san, xe tải  ben”;  Tay cao khều, đen nhẻm như than cốc mỏ cọc 6 luôn bám sát phía sau tôi, cất giọng Nghệ: “Em lái đào 07, chủ xe em xin cho làm tiếp”. Có ba ông thầu nhân công mỗi ông có vài chục lính đều người miền Tây… Chỉ buổi chiều bộ máy công trường coi như đầy đủ, tôi ghé Ban dự án thống nhất hợp đồng, quyết định ngay ngày hôm sau sẽ khởi công…

Cô gái áo hồng ăn diện khá sexy vào gặp tôi khi đám đàn ông ồn ào, suồng sã đã lui ra. Sáng nay, khi vừa từ xe ngựa xuống, tôi đã bắt gặp cô nàng từ dưới suối đi lên, tuồng như ra suối gội đầu, mái tóc dài bết vào trước ngực ròng ròng nước…Trông đẹp và hấp dẫn…

– Em tên Thu… Em theo anh Cường lên đây mở canteen… Anh cho em tiếp tục lo cơm nước cho công trường nhé?

– Anh không tổ chức bếp – Tôi lạnh tưng – Anh mệt vì vụ này nhiều rồi! Đám lái xe, lái máy không thể chiều nổi, đứa chê mặn, đứa chê nhạt… cuối cùng bếp nào rồi cũng giải tán…

Tôi nói thực lòng. Tôi có quá nhiều kinh nghiệm không vui về mấy ông giặc lái ở công trường, hồi ở Long Hậu tôi mất cả một đống tiền mua dụng cụ nhà bếp, nấu ăn nửa năm thay đến bốn đầu bếp, cuối cùng cũng phải dẹp…

-Anh Hai nói vậy… Em hiểu… Nhưng ở đây không có hàng quán bên ngoài. Công nhân phải chạy ra mãi ngã tư mới có tiệm ăn, quay về cũng gần bốn chục cây số. Anh sẽ bị mất luôn nửa ngày công… Nàng nhìn tôi với đôi mắt nâu đẹp, buồn, phân tích rõ ràng thuyết phục. Nhưng thấy tôi im lặng, thì đôi mắt nâu bắt đầu ướt mèm: “Cứu em với anh Hai! Em dồn hết tiền bạc cho cái canteen này rồi. Nay, không bán chắc em chết!”.

Nếu tôi từ chối, kịch bản tiếp theo có thể cô ta sẽ khóc. Tôi quá ngán cái kiểu khóc lóc của các em gái miền Tây, hơn nữa, cô ta nói cũng có lý: ở xung quanh không có hàng quán nào cho công nhân. Mà đám công nhân, nhất là đám lái máy, không thể thiếu quán xá, nơi họ cần mua ít thuốc, trà, mì gói, cà phê và ngồi đấu hót với nhau sau giờ làm việc…

Khi tôi chuẩn bi tắt đèn đi ngủ sau một ngày ngược xuôi vất vả thì cái cửa liếp bằng lá tranh kêu lẹt xẹt. Thật bất ngờ, Thu ôm mớ chăn mền, gối, mặc quần áo ngủ mỏng tang, phô ra tất cả đùi ngực trắng nõn, nhào vào thẳng cái giường sắt. Tôi thét lên sửng sốt: “Cô làm trò gì vậy hả?”. Thu vẫn nằm trên giường, kéo mền phủ kín đầu, cười khùng khục:

-Sếp à, trong hợp đồng em với giám đốc trước có điều khoản tối tối em phải qua ngủ chung…

Tôi giật tung cái mền cuộn tròn, đẩy cửa, ném ra ngoài:

-Cô cút ra ngay! Cút ngay! Với tôi không có cái điều khoản ngủ chung ấy. Cái thằng trước không biết kiêng khem nên mới vậy! Nó ngủ với cô ngay ngày hợp long cần cẩu sập là phải. Nếu cô còn muốn ở công trường này thì từ nay đừng có giở trò mèo với tôi!…

                                                            ***

Thực ra, công trường thiếu một thiết bị quan trọng, một chiếc cẩu lớn, cẩu trên 50 tấn, có tầm với trên 30m, để có thể lắp đặt dầm cầu qua con suối. Tháng trước, ngay sau khi tai nạn xảy ra, tay chỉ huy công trường trốn mất dạng, tay lái cẩu cũng tìm cách bôn tẩu. Chủ máy lên công trường ăn vạ đòi tiền thuê cẩu, tay Thể không trả, dây dưa, tìm cách neo cẩu lại thi công tiếp. Nhưng tay chủ cẩu thuộc loại anh chị không chấp nhận, sau khi đổ ụp không biết bao nhiêu cứt đái vô mặt Thể và Ban dự án, ông ta thuê xe tải thùng chuyển chiếc cẩu đi. Tay Thể ngày nào cũng qua công trường kiểm tra xem tôi đã đưa cẩu về thi công chưa. Hắn suốt ruột phát điên lên khi nhìn thấy cái bãi đầu cầu bên này vẫn trống không, chỉ thấy mấy cái thùng phi rỗng và mấy công nhân đang cưa những khúc gỗ tròn… Mặt hắn đỏ lên như gà chọi hiệp hai, cúi gằm xuống: “Ông tính sao?”.

Tôi không thể thuê một cái cẩu 50 tấn. Muốn thuê tôi phải về thành phố tìm, và phải có tiền, ít nhất phải trả trước một tháng thuê cẩu nhẹ cũng trên trăm triệu và tiền vận chuyển chiều đi không dưới 20 triệu. Tôi đang khô túi, nói theo ngôn ngữ của đám công nhân đít móc ba ngày không thấy cứt, thì làm sao có thể thuê cẩu.

Nhưng tôi đã có cách, ngay hôm khởi công, tôi cho công nhân đúc ngay cái dầm bê tông bị gãy, dùng phụ gia tăng cường độ 7 ngày (R.7). Tôi sẽ lao nhịp cầu theo phương pháp thời làm công binh bắc cầu dã chiến không cần xe cẩu.

Tôi đã lao hàng trăm nhịp cầu dã chiến như vậy trong chiến tranh, thời gian làm lính công binh. Tôi đang học dở năm thứ tư trường Bách Khoa thì động viên ra trận, sung vào một đơn vi công binh. Thời gian quân ngũ của tôi là đi bắc cầu. Những cây cầu tạm trên những con đường thời chiến, không có bất cứ chiếc xe cẩu nào, chỉ với sức người… Tôi là dạng lính tráng chưa một lần chạm mặt phía bên kia, chạm mặt đối phương, nhưng chạm mặt cái chết thì hàng ngày. Cái chết từ trên trời bất ngờ dội xuống.

Tôi cho dầm cầu trượt trên con lăn là những thanh gỗ tròn ra sông và gối lên ngay những cái phao ghép bằng gỗ với các thùng phi. Sau đó tôi cho đắp chặn suối phía dưới cho nước dâng lên, các phao gỗ thùng phi cũng nổi lên. Nhẹ nhàng tôi kéo cái bè chở dầm cầu vào đúng vị trí sau đó cho hạ bè xuống đặt dầm vào trụ cầu…

Cận ngày thi công lắp dầm cầu theo tiến độ, không thấy xe cẩu đâu, gã Thể hộc tốc chạy xuống tìm tôi để dằn mặt. Gã vừa đi vừa chửi tôi qua điện thoại, giật mình sửng sốt khi nhìn xuống suối thấy cầu đã bắc xong… Gã sung sướng thét lên như bị điên…

Vượt được qua con suối coi như tôi đã hoàn thành 70% nhiệm vụ. Các công việc còn lại cứ làm tuần tự theo thời gian… gã Thể trong cơn sung sướng đã đồng ý chi trả tất cả các món nợ của công ty trước đối với công trường, tôi cho tất cả nghỉ hai ngày, đầu tuần sau thi công tiếp…

Tôi dúi vào tay Hiệp chiếc phong bì: “Tiền thưởng em cho việc hợp long cầu!”.

Nó sung sướng rên lên: “Em thấy mái nhà của mẹ rồi anh! Em đang mơ ngày trở về nhà trong túi có tiền… Lần đầu em được thưởng vì nghề kỹ sư của em đấy! Em rất vui…”. Sáng hôm sau, gặp tôi bên suối, Hiệp cười tươi: “Đêm qua, em mơ kỳ lắm… Kỳ lắm… Nói anh đừng cười: em mơ em về nhà móc túi nào cũng đầy tiền. Chỉ lạ là: toàn tờ 200 đồng mới tinh anh ạ. Đồng 200 bây giờ có ai tiêu nữa đâu! Có điềm gì không anh?!” .

Tôi cũng trằn trọc suốt đêm qua không ngủ được. Nhưng tôi không mơ, tôi không ngủ được vì những phép tính thiết thực. Từ lâu nợ nần đã nhấn chìm dự tính tương lai của tôi. Nhưng đêm qua, tôi quay lại những phép tính cũ: với giá được giao, tôi sẽ có lợi nhuận ít nhất 15% khi thực hiện xong hợp đồng, chỉ với con đường công vụ dẫn vào đập chính nhà máy nhiệt điện, tôi sẽ có gần năm tỷ… Tôi sẽ trả hết được các món nợ hiện tại, chuộc lại giàn máy khoan cọc nhồi và cái công ty xây dựng của tôi lại có thể trương biển lên ở ngay trung tâm thành phố.

Sau công trình này, tôi cũng không đi đến miền rừng nữa…

                                                   ***

Dư âm của mấy ly rượu tây mà chủ đầu tư thưởng cho bên thi công trong tiệc mừng hợp long cây cầu qua suối Nậm Cóc làm tôi tỉnh dậy với cái đầu nặng trĩu… Tiếng động cơ của mấy chiếc máy đào ủi từ bên kia suối dội về làm tôi phấn chấn, chỉ cần băng qua ngọn đồi kia là chúng tôi sẽ đến đích…

Tôi vừa đánh răng xong, thì tiếng máy đào đang gầm rú bên kia sông im bặt. Cậu kỹ sư đầu trần, người trần đang chạy băng qua cầu hướng về lán công trường.

Hiệp thở không ra hơi khi gặp tôi ở trước lán:

– Nguy to rồi anh. Máy đào vừa chạm vào một cái đầu… đầu người…

– Đầu người hay đầu lâu?

– Dạ! Đầu lâu!- Hiệp líu cả lưỡi – Cái… cái hộp sọ người!…

Tôi không nói gì, mặc quần, giật ngay chiếc áo sơ mi treo trên tường, rồi vừa chạy vừa mặc theo Hiệp băng qua cầu sang bên kia suối.

Người lái máy đào 07 đen ngòm như than cốc mỏ coc 6, nhào lên đón tôi giữa cầu, nói không ra hơi: “Kinh khủng… kinh khủng… em vừa đưa gầu lên…”.

Tôi bước đi hụt hẫng như bị rơi chân xuống hố sâu.

Tất cả đám công nhân đều ngừng việc bu lại như đang xem gánh sơn đông mãi võ ở chợ quê, mắt dán vào chiếc đầu lâu đang nằm ngay trên đám đất do gầu máy đào xả xuống… Tôi bước ngay tới, cởi chiếc áo ra và nhấc chiếc sọ người lên đặt ngay vào chiếc áo gói lại ôm trước ngực… Trong tôi, ký ức tươi rói về một tai hoạ tương tự khác ập về…

Tôi nhận được hợp đồng xây dựng một biệt thự trên một nền nhà phố cũ vừa phá dỡ. Chủ mới quan chức bên dầu khí đang phất nên khá hào phóng. Trời đất, đang đào móng thì đám công nhân khui lên một cái trống đồng, mặt có hoa văn chim Việt… Tôi chưa biết nên làm gì, đang mãi ngồi ngắm cái mặt trống thì ba vị tự xưng là cán bộ sở văn hoá mặc sơ mi trắng bỏ trong quần, có đeo thẻ xanh trên cổ ập vào. Mất một buổi sáng với mấy quan chức văn hoá để lập biên bản thu giữ cổ vật, bị đuổi ra khỏi mặt bằng, ngay đó công trình bị niêm phong…

                                                          ***

Bài học trống đồng năm xưa làm cho tôi lạnh gáy nhưng cũng gợi mở cho tôi việc phải làm ngay là phải chặn hết các cuộc điện thoại từ đám kỹ thuật, công nhân, có thể bột phát đưa tin ra ngoài. Tôi quay ra đám công nhân đang sợ sệt và tò mò: “Có ai khi phát hiện ra sọ dừa đã bàn tán và nói những từ như “sọ dừa”, “hộp sọ”, “đầu lâu”… không?” – Tôi nhấn mạnh với giọng nghiêm trọng: “Tuyệt đối không được nói lời xúc phạm liên quan đến thi hài người xấu số. Ai nói sẽ bị xui xẻo, ai đã lỡ lời, bây giờ hãy nói thầm lời xin lỗi, và khi nói hãy đưa tay về phía đầu lâu trả lại nhưng từ đã lỡ nói…”.

Tôi đưa cái đầu lâu lên cao ngang ngực, xoay người chầm chậm, đúng môt vòng tròn. “Công ty cho công trường nghỉ buổi chiều nay. Anh Nam – tôi nói to với chỉ huy trưởng công trường – cho mua ngay một con dê, xẻ thịt làm mấy món cúng. Tất cả anh em công trường vẫn được tính nguyên ngày công. Chiều nay, chúng ta sẽ tham gia lễ an táng cho người xấu số. Tất cả lưu ý, để tránh xui xẻo, tránh bị hồn ma theo ám, không ai được nhắc đến sự việc này”.

Tôi chỉ giữ một người công nhân ở lại, rồi bảo Hiệp kỹ thuật chạy về lán mang xuống nén hương. Tôi thắp hương, khấn vái vong linh người xấu số, rồi ra lệnh cho Hiệp và người công nhân xuống hố móng gạt lớp đất phía trên. Khi lớp đất đuợc gạt hết lộ ra lớp vải xanh tôi bảo người công nhân dừng lại quay về lán lấy giúp tôi chiếc áo mưa và gọi thêm hai người công nhân lớn tuổi. Tôi viết ra giấy những thứ cần mua trong đó có một bộ quan quách, đưa tờ giấy, tiền cho Hiệp và không quên dặn Hiệp không được nói gì về việc xảy ra ở công trường. Hãy khịa ra việc mua về một địa danh khác để cải táng ông bà.

Tôi bước xuống hố móng, đụng tay vào lớp áo vải quân phục, lập tức nó vỡ vụn ra…Tôi giật mình… dưới hố móng không phải một mà hai bộ xương người, lần lên phía trên còn một sọ người nằm ngay trong chiếc nón sắt, bên cạnh là chiếc nón cối còn trơ phần dưới, phần trên đã bị gàu máy đào kéo lên cùng hộp sọ.

Hai người lính nằm sát nhau, song song, hai cái đầu có lẽ chạm nhau. Cả hai nằm nghiêng quay mặt vào nhau. Tôi kéo hết các mảnh vụn quần áo đã bục, lộ ra hai bộ xương và chi tiết đập vào mắt tôi là cánh tay của người lính đội nón cối vòng ra phía sau lưng của người lính đội nón sắt, những ngón tay giữ chặt cán một con dao găm. Lưỡi dao xuyên thấu qua ngực của đối phương. Tôi moi đám đất phía sau lưng người lính đội nón cối, tìm thấy bàn tay của người lính đội nón sắt cũng đang cầm một con dao găm khác, lưỡi dao nằm trong bầu ngực của người lính đội nón cối.

Tôi ngước nhìn lên, ngay trên đầu tôi là mỏm núi đá nhô ra sông, ngay lập tức tôi hình dung ra tất cả: Một cuộc đụng độ giữa hai bên rất khốc liệt ở mỏm núi trên kia, một trận đánh có thể kéo dài ngày này qua ngày khác, hai bên đã bắn đến viên đạn cuối cùng…Vào phút giây sinh tử, hai người lính giáp mặt nhau, vứt súng nhảy vào nhau đánh giáp lá cà, trên tay họ chỉ còn hai con dao găm, một con dao Made in U.S.A và con dao kia không có nhãn hiệu. Họ vung dao lên đâm xuyên ngực đối phương và ôm ghì lấy đối phương để ấn mạnh lưỡi dao nhằm giết chết địch thủ. Cú nhảy bổ ấy, cũng làm họ mất thế cân bằng nên ngã nhào ra khỏi mỏm núi rơi xuống vực.

Cú rơi từ độ cao hơn 20m xuống đám sỏi bờ sông, cùng với cú đâm xuyên ngực đã làm họ chết ngay tức khắc. Hai cái xác chết nằm yên trong tư thế ôm nhau…Họ nằm ở đấy bốn mươi năm qua, thân xác phân huỷ, tan rữa theo thời gian và dòng sông cứ theo thời gian vùi lấp xác họ dưới lớp sa khoáng, cuội, sỏi…cho đến khi chúng tôi đào đất đắp đường…

Tôi dấu hai con dao găm vào lưng quần, rồi bước lên hố móng đứng chờ mấy người công nhân. Khi họ tới, tôi nói cho họ rõ những gì tôi biết: ở dưới hố kia không phải một mà có hai người lính, xác đã hoàn toàn phân huỷ, hai bộ xương nằm song song nhau, họ giúp tôi bốc hai bộ hài cốt lên tách riêng ra, phải rất cẩn thận không làm xáo trộn hai bộ hài cốt…

Tôi gọi điện thoại cho Hiệp, báo em mua gấp đôi những thứ tôi ghi trong giấy vì có hai bộ hài cốt chứ không phải một. Hiệp báo lại đã hỏi nhiều người nhưng họ nói rằng ở thị trấn không có bán tiểu sành. Nếu về thành phố thì phải ít nhất hai ngày em mới quay lại được.

-“Vậy, em hãy tự quyết lấy, em có thể tìm mua hai quan tài nhỏ, hay mua hai cái chậu trồng cây hình chữ nhật tương tự cái quách!”.

Tôi đi lên lán công trường kiểm tra công việc chuẩn bị cho buổi chiều và nghe ngóng tình hình. Tại nhà bếp, con dê đã chọc tiết. Một nhóm đang cạo lông. Trên kệ đã thấy chồng mấy thùng bia, mấy chai rượu trắng và chồng bánh tráng. Thu xắn cao cái quần bò đang hướng dẫn tay tài xế xe tải ben nhặt rau và đứng quay cái đũa cả trong chảo cơm đang chín tới. Thấy tôi, nàng nhoẻn miệng một nụ cười méo xệch như sắp khóc. Có lẽ nàng đang hết sức lo lắng… Chỉ huy phó công trường đã nhanh nhẹn chia 2 nhóm chơi bóng chuyền trên cái sân đất trước lán. Hi vọng không có công nhân nào rảnh rỗi để buôn chuyện.

Thấy tôi, người lái máy đào sáng nay tách khói đám công nhân đang xem bóng chuyền từ góc sân bước ra:

-Tình hình sao anh Hai? Chúng ta có tiếp tục thi công không? Em lo lắng quá! Em mang máy lên đây, bây giờ quay về cũng chết mà làm tiếp cũng không an. Hôm trước, nhờ có anh, em lấy được nợ cũ nhưng hôm nay gặp sự cố này em sợ quá!

Rồi không đợi tôi trả lời, anh ta nói tiếp:

– Anh Hai, em đã tìm hiểu kỹ qua mấy người dân làm rẫy điều trong kia. Nơi này âm khí nặng nề!

– Em đã nghe họ nói chuyện gì?

– Đây xưa là rừng. Rừng nguyên sinh anh Hai. Cây to mấy người ôm không xuể. Có một trung đoàn quân quốc gia và Bắc Việt đụng độ ở đây. Cả mấy ngàn lính quần nhau gần một tháng ròng. Chết la liệt. Sau đó, thì đủ các loại pháo bom dội xuống đây cũng một tháng ròng, không còn một cây rừng nguyên sinh nào còn nguyên dạng. Nghe nói quạ từ đâu bay tới ngập trời bu đen đầy trên đồi kia khi mùa mưa xuống chúng mới bay đi…Em nói anh Hai nghe, cái đồi mà anh em mình sắp đào qua làm đường, cứ đá chân xuống đất là gặp xương người…

Câu chuyện chắc sẽ còn dài, nếu không có người công nhân trong nhóm bốc hài cốt hớt hải tìm tôi:

– Bọn em chỉ phân biệt được xương cổ, xương tay, xương chậu…Còn lại không thể phân biệt để tách ra được!

– Em nên lấy chiều dài của xương tứ chi mà phân biệt các xương khác!

– Không được! Cả hai người có lẽ chiều cao, vóc dáng giống nhau. Xương cốt họ bị cát đất lấp dịch chuyển trộn lẫn vào nhau…     

Tôi theo người công nhân đi xuống hố móng nơi đang bốc hài cốt. Những mảnh xương sườn, ngón chân, ống chân, cẳng chân… không thể phân biệt được của người lính nào được để chung lẫn cùng đá sỏi và đất có màu đen. Không còn cách nào để phân biệt các mẩu xương thuộc về bộ hài cốt nào theo cách thông thường. Chỉ còn một cách. Tôi lấy hai đồng xu bằng đồng ra, thắp nén hương cầu xin sự mách bảo, sau đó đặt cái xương cẳng chân ghép vào nơi để hài cốt người lính đội nón sắt và tung đồng xu lên. Hai đồng xu rơi xuống ngã sấp mặt giống nhau. Như vậy, hai người lính không đồng ý mảnh cẳng chân của người lính nón sắt. Tôi đặt mảnh xương sang hài cốt đối diện, lạih tung đồng xu lên. Hai đồng xu rơi xuống, lạ thay, lại rơi cùng sấp mặt, nghĩa là không đồng ý cho bất cứ bên nào?

Lại nhặt một khúc xương ống hỏi tiếp. Dù gieo bất cứ cách nào thì đều không nhận được câu trả lời.

Mồ hôi chảy thành dòng trên trán tôi.

Ngay lúc đó em Hiệp kỹ thuật cũng trở về với những thứ tôi đặt mua: vải đỏ, nến, và hai cái chậu hoa hình chữ nhật thay thế cho hai cái tiểu sành. Khi chứng kiến tôi xin keo mãi không được, em kéo tôi ra ngoài:

– Có lẽ anh nên xin khác đi?

– Là sao?

– Anh hãy hỏi: “ Hai vị có muốn được an táng riêng hai ngôi mộ không?”.

Trong lý trí tôi: câu đó hết sức thừa, không cần phải hỏi hai kẻ thù địch đã cắm lưỡi dao găm sâu tận cán đoạt mạng sống của nhau, nhưng trong lúc hoang mang như bị thôi miên, tôi làm theo lời của Hiệp.

Ba lần câu trả lời là: không!

Không thể tin, tôi hỏi ngược lại để kiểm chứng: “Xin hỏi hai vị có muốn được an táng chung trong một ngôi mộ không?”.

Hai đồng xu tung ra rơi xuống tấm nilon nẩy lên, xoay tít mù hồi lâu như có ma thuật rồi đổ xuống: một đồng sấp, một đồng ngửa! Cả ba lần đều vậy.

Buổi lễ từ đó trở đi cho đến khi kết thúc êm thuận một cách kỳ lạ. Hài cốt hai người lính được rửa sạch bằng rượu, bọc trong tấm vải đỏ bỏ vào quan quách. Phần còn trống chèn đầy bông vải. Tôi bỏ vào đó nhiều cục sáp thơm hút ẩm.

Chúng tôi an táng hai vị trên một gò đất bên bờ suối cách tuyến đường đang thi công khoảng năm mươi mét. Ở đây, trong thời gian tới, hai vị có thể thấy những dòng người qua lại để đỡ cô quạnh. Tôi thắp hương nói ít câu tiễn biệt, từng người công nhân xếp hàng lần lượt dâng hương lên ngôi mộ và vái lạy.

Mấy người công nhân gom củi lại đốt một đống lửa to, nghi ngút khói gần đấy.

                                                        ***

Gã Thể tìm thấy tôi ngay ở bãi đá bên suối. Gã đang khó chịu vì công trường nghỉ thi công:

– Ông hoành tráng thật. Cứ như làm lễ an táng một vị anh hùng! Nếu ông cứ mất thời gian cho những việc như thế này thì khi nào thông tuyến ra thượng nguồn…

– Thủ tục không thể không làm ông ạ. Nhân đây, tôi cũng trao đổi với ông luôn: trên mỏm đồi kia còn rất nhiều hài cốt những người lính chưa được thu gom. Ngày xưa, nơi đây là một bãi chiến trường. Nếu ông vẫn muốn thi công theo tuyến thiết kế thì phải báo với địa phương, phải yêu cầu địa phương quy tập hết hài cốt…Còn không, ông phải mở tuyến đi tránh?

– Như vậy, thời gian sẽ sao?

– Thêm ít nhất một tháng. Phải ba tháng mới hoàn thành.

– Ông có điên không! Cả hai phương án đều không! Tôi nói cho ông biết không có phương án nào khác, chỉ có phương án duy nhất theo thiết kế! Chỉ có hạn cuối cùng hai tháng!

– Vậy, các ông thi công đi! Tôi không đào bới xác những người lính!…

Dưới ánh trăng, tôi vẫn nhìn thấy bộ mặt Thể tái dại đi. Hắn vung tay, nhảy chồm chồm như động kinh:

-Mày! Mày! Là thứ không chơi được!…

                                                              ***

Tôi tập hợp tất cả công trường lại. Tôi thông báo Công ty Hải Hà không tiếp tục thi công nữa, tôi sẽ đi khỏi công trường. Tôi rất cảm ơn mọi người đã tham gia cùng tôi trong những ngày qua. Tôi xin lỗi vì còn nợ tiền của họ, nợ tiền công mấy ngày qua và không thể trả.

Tôi rất ngạc nhiên trước thái độ của những người công nhân, lái máy. Hình như tất cả họ đều cảm thấy việc ra đi của tôi là tất nhiên, họ rất buồn nhưng không trách móc và không hỏi tôi bất cứ điều gì.

Từng người một bắt tay tôi, buồn bã đi về lán, hình như sau sự kiện hôm nay, họ đều đã có những quyết định riêng. Nhiều người nói khi chia tay: tôi đi, họ cũng sẽ rời công trường vào sáng mai. Những người lái máy, họ sẽ còn chờ đợi chủ máy quyết định…

Khi tôi về lán công trường, Thu đã ở đó:

– “Hôm nay, sếp an táng hài cốt hai người lính nhiều người cảm ơn sếp đấy. Em cũng cảm ơn. Ba em cũng là một người lính không tìm thấy xác…Biết đâu, trên đồi kia có xác của ba em!”.

– “Cũng có thể trên đồi kia có xác của anh trai anh. Cũng là một người lính không trở về. Em còn ở lại đây chờ nhà thầu mới không?”

– “Không. Thôi đành mất tất cả sếp ạ. Em về quê. Hi vọng rồi sẽ tìm được một việc gì đó để kiếm lại tiền…”

– “Chúc em may mắn!”

–  “Em nghe nói nếu sếp bỏ việc này về thành phố, sếp sẽ ra toà, bị bỏ tù?”

–  “Đúng vậy em! Anh phá sản và nợ …”

– “Vậy có khi, em vẫn còn đỡ tệ hơn sếp…”

                                                          ***

Tôi trở dậy vào 4h00 sáng. Tôi qua phòng bên, đánh thức Hiệp, hai thầy trò lặng lẽ lên đường. Lại một chặng xe ôm ra thị trấn, bắt xe khách đi tiếp. Cả hai im lặng không nói gì trên đường đi, tâm trạng buồn chán, rã rời…Buổi sáng khá lạnh, sương mù phủ kín hai bên đường, gió đẫm hơi nước xuyên qua khe kính hở…

Hiệp buồn và thất vọng hơn tôi rất nhiều. Có thể vì em còn trẻ, vì em đặt nhiều hi vọng cho công việc ở nhà máy thuỷ điện Nậm Cóc. Khi hai thầy trò ngồi lại bên đường, chờ bắt chuyến xe khách đi tiếp về thành phố, Hiệp dường như thoát khỏi trạng thái u uẩn:

– Em cứ nghĩ mãi về hai người lính, về hình ảnh họ ôm nhau chết!

– Anh cũng vậy. Cả đêm qua anh không ngủ được. Không phải vì công việc thất bại mà vì bị ám ảnh về họ…

Có lẽ hai người lính là những người còn sống sót sau trận đánh ác liệt, kéo dài nhiều ngày trên mỏm núi, trong khoảng rừng nguyên sinh thượng nguồn con sông…Một người lính bị thương nặng cố lết ra suối lấy nước uống và kiệt sức gục xuống. Người lính kia cũng lần ra suối để tìm nước. Sau giây phút hoảng sợ, nhận ra đối phương đã không còn khả năng gây nguy hiểm cho mình, người lính kia áp sát đối phương, thu ngay vũ khí, và lục tìm hết các túi quần áo… Người lính cần thực phẩm, thuốc chữa bệnh… ít thuốc lá, hộp quẹt…

Người lính có thể đã tìm thấy trong túi đối phương một bức ảnh, một lá thư, một cuốn sổ tay ghi chép… Người lính này quỳ xuống bên người lính kia, xem bức ảnh, tò mò đọc lướt qua lá thư, đọc ít dòng trên cuốn nhật ký nhàu nát… Hoá ra, họ cũng ra đi từ một làng quê nghèo… Hoá ra, họ, cả hai đều ra đi với niềm tin tươi sáng về ngày mai, về hoà bình, lòng mong mỏi kết thúc cuộc chiến để trở về nhà… Họ ra đi để lại người mẹ già, để lại cô em gái đang học dở dang trung học… Họ đều có một mái tranh ở một vùng quê mà có thể sẽ sụp xuống vào mùa mưa bão sắp tới… Có thể trong túi áo người lính có một lá thư đang viết dở: “Mẹ ơi, hết chiến tranh con sẽ về dựng lại mái nhà tranh cho mẹ!…”.

….

Người lính đã khóc khi đọc bức thư ấy, đã khóc khi đọc những dòng ghi chép ấy. Trong túi anh cũng có một lá thư như vậy:  Mẹ ơi, con sẽ trở về…”. Thay vì giết người lính đối phương, anh ấy đã cúi xuống nâng người lính ấy lên và dìu đi. Rồi trên đường đi vào bờ suối, họ kiệt sức và nằm lại ở đấy. Họ lịm dần, rồi chết trong tư thế ôm chặt lấy nhau…– Hiệp quay lại hỏi tôi, nước mắt chảy dài trên má em – Anh có nghĩ vậy không?

Tôi đặt đặt hai bàn tay lên đôi vai gầy đang rung theo tiếng nấc của em:

-Anh cũng nghĩ như vậy! Cả hai người lính đó, họ ra đi từ một làng quê, một làng quê nghèo, ra đi từ một mái tranh lợp bằng rạ, lợp lá dừa… Họ là trụ cột của một gia đình. Ra đi, để lại mẹ già không có ai chăm sóc, để lại cô em gái bé nhỏ, để lại mảnh vườn không ai cày cuốc…và họ đều mong ngóng một ngày nào đó hết chiến tranh trở về lợp lại mái tranh cho mẹ…

Đến thành phố, tôi bảo Hiệp ngồi lại chờ trong một quán cà phê. Tôi đi bộ qua dãy phố bên cạnh, nơi có những cửa hàng bán đồng hồ, máy ảnh, đồ trang sức. Cái đồng hồ, tài sản có giá nhất trên người, tôi đã mua ở đây mười lăm năm trước khi hoàn thành một công trình được chủ đầu tư thưởng. Chỉ có thể bán chính ở đây mới được giá. Chủ tiệm nhận ra nó ngay khi xem mặt sau đồng hồ. Ông hỏi tôi bán, hay muốn đổi một cái đồng hồ khác, tôi nói tôi cần bán…

Khi tôi quay lại, Hiệp vẫn ngồi lặngm ở đấy, như vẫn đang chìm trong những ý nghĩ về hai người lính.

Tôi đưa tiền cho em.

-“Cái này không đủ để em thực hiện giấc mơ: trở về nhà với nhiều tiền trong túi, dựng lại ngôi nhà cho mẹ, nhưng có thể giúp em đủ tiền mua vé về nhà, đủ tiền sửa lại mái tranh cho mẹ. Em hãy ở với mẹ một thời gian rồi đi tìm một công việc mới!”

-“Anh! Anh đâu có tiền. Em không còn hi vọng em được trả lương!”

Tôi đưa cái cổ tay chỉ còn hằn vệt dây đeo đồng hồ cho Hiệp thấy, rồi bước nhanh ra cửa, không muốn kéo dài những giây phút chia tay …

Năm đó, tôi đã ngoài năm mươi, lại một lần tay trắng và sắp bước chân vào tù vì nợ nần…                    

                                                                                                  An Phú 01-02-2020

                                                                                                  Đặng Chương Ngạn